Sức khỏe - Sảng khoái - Sành điệu

Tam thất - Vị thuốc quý

Trong Đông y, tam thất còn được gọi là kim bất hoán, kim tức là vàng, bất hoán có nghĩa là không đổi được; ý nghĩa là vị thuốc tam thất rất quý, đến mức có vàng cũng không thể đổi được.

Tác giả: Đào Hải Lâm Ngày đăng: 23/12/2016

Tam thất - Vị thuốc quý

Tam thất là rễ của cây tam thất, còn gọi là sâm tam thất. Trước đây được coi như vị thuốc giả nhân sâm,  ý nói có thể thay nhân sâm. Chính vì vậy mà ngay tên khoa học của nó cũng phản ánh được điều này: Panax pseudo ginseng Wall. Ở đây từ Panax mang ý nghĩa tên chi của nhân sâm (về phân loại thực vật), xuất phát từ tiếng Hy Lạp Panacen, tức là chữa được rất nhiều loại bệnh. Còn pseudo, có nghĩa là giả và ginseng là phiên âm từ nhân sâm. Ngày nay tên khoa học của tam thất là Panax Notoginseng (Bark.) F.H. Chen, họ nhân sâm Araliaceae (ngũ gia bì). Trong Đông y, tam thất còn được gọi là kim bất hoán, kim, tức là vàng, bất hoán, là không đổi được; có nghĩa là vị thuốc tam thất rất quý, đến mức có vàng cũng không thể đổi được.

 Tác dụng sinh học của tam thất

Tam thất có tác dụng tăng lực rất tốt, tác dụng này giống với tác dụng của nhân sâm; rút ngắn thời gian đông máu; tiêu máu ứ và tăng lưu lượng máu ở động mạch vành của động vật thí nghiệm. Làm tăng sức co bóp cơ tim ở liều thấp; tác dụng kích dục, đối với chức năng nội tiết sinh dục nữ, thể hiện ở các hoạt tính oestrogen và hướng sinh dục; giãn mạch ngoại vi và không ảnh hưởng đến huyết áp và hệ thần kinh trung ương; điều hòa miễn dịch; kích thích tâm thần, chống trầm uất.

Tại sao tam thất lại tác dụng tốt như vậy?

Tam thất cũng chứa các hợp chất giống như nhân sâm. Các bộ phận của cây như rễ con, lá, hoa tam thất đều chứa các hợp chất saponosid nhóm dammaran. Ngoài ra còn phải kể đến các thành phần có giá trị khác như các acid amin, các chất polyacetylen và panaxytriol...

Tính đa dạng trong sử dụng tam thất

Trong Đông y, tam thất được xếp vào loại đầu vị của nhóm chỉ huyết (cầm máu). Khi nhấm có vị đắng nhẹ, hơi ngọt và để lại dư vị đặc trưng của nhân sâm. Để dễ phân biệt, tiền nhân có câu nói về vị của tam thất: Tiền khổ, hậu cam, hậu cam cam. Nghĩa là khi nhấm, lúc đầu thấy vị đắng, sau thấy ngọt và càng về sau càng thấy ngọt. Trên thực tế, tam thất được sử dụng rất đa dạng. Như ta đã biết, tam thất thuộc vào dòng nhân sâm nên có tác dụng bổ, song lại có phần khác với nhân sâm là tam thất lại theo hướng tác dụng vào phần âm huyết là chính. Tuy nhiên từ trước đến nay, tam thất vẫn là vị thuốc được sử dụng chính để cầm máu, tiêu máu cục và bổ máu. Cầm máu vẫn là tác dụng được ưu tiên của tam thất. Với 3 tác dụng trên, đối tượng được quan tâm sử dụng nhiều nhất của tam thất vẫn là phụ nữ sau khi sinh, vì thuốc có tác dụng chữa chảy máu, máu tụ và thiếu máu. Để tăng thêm ý nghĩa bổ, tam thất thường được sử dụng dưới dạng tần gà. Tam thất được dùng để cầm máu khi xuất huyết bên trong như rong kinh, băng huyết, chảy máu cam, ho ra máu, thổ huyết, trĩ xuất huyết... hoặc thiếu máu gây hoa mắt, chóng mặt, da dẻ xanh xao... Có thể sử dụng dưới dạng uống (thuốc hãm, bột thuốc). Với chảy máu bên ngoài như chấn thương, bị thương chảy máu có thể dùng bột tam thất rắc vào vết thương rồi băng lại.

 Cần chú ý thêm rằng, đối với trường hợp làm tiêu máu tụ, chỉ nên sử dụng tam thất khi triệu chứng xuất huyết mới xảy ra. Ví dụ xuất huyết tiền phòng ở mắt, dùng tam thất lúc này rất tốt. Nếu trong mạch máu hoặc trong tim đã có các cục máu đông, không nên dùng tam thất nữa. Nếu dùng, cục máu này sẽ là trung tâm để kết tụ, làm cho cục máu to dần lên, ảnh hưởng đến sự lưu thông của mạch máu, đôi khi gây ra đột quỵ. Ngày nay, tam thất còn được dùng để trị các  bệnh  u xơ, u cục..., cho kết quả khá tốt, tuy nhiên không phải là tất cả. Ngoài ra còn dùng tam thất kết hợp với một số vị thuốc khác, như đan sâm để trị bệnh đau thắt ngực do xơ vữa động mạch vành, hoặc lưu lượng huyết quản giảm, hoặc sau tai biến mạch máu não...

Những cây mang danh tam thất

Do tam thất có nhiều tác dụng tốt nên trên thực tế, người ta đã dùng nhiều vị thuốc "giả danh" tam thất. Do vậy, khi sử dụng vị thuốc quý này, cần biết những vị thuốc thường được dùng dưới tên gọi là tam thất, song không có những tác dụng như vị tam thất đã giới thiệu.

Tam thất gừng Stablianthus thorelli Gagnep, họ Gừng Zingiberaceae.

Cây này có hình thái thực vật giống cây nghệ, lá có mùi nghệ, được trồng nhiều ở Ba Vì. Ở mỗi gốc nhổ lên có rất nhiều củ nhỏ, có hình tròn dẹt. Trên thị trường đôi khi người ta đánh bóng vỏ rễ bằng một lớp màu đen, khi nhấm có vị đắng, mùi nghệ. Nhiều người đã mua nhầm.

Thổ tam thất Gynura pinnatifida L., tên đồng danh Gynura segetum (Lour.) Merr, G. japonica (Thunb.) Juel., họ cúc Asteraceae. Cây này thường trồng ở Hải Dương, Hưng Yên với tên bạch truật nam, cũng được gọi là tam thất. 

Dùng tam thất có phòng được ung thư?

Cùng với những nhân sâm, linh chi… tam thất cũng được coi là một vị thuốc quý. Do có sự phổ biến rộng rãi, nên nhiều người dùng đã coi tam thất như một vị “thuốc tiên”, có thể trị được nhiều bệnh, ngay cả đối với căn bệnh ung thư… 

Củ tam thất có hình thoi, hoặc hình con quay, không phân nhánh, đầu sần sùi thành những mấu. Vỏ ngoài của tam thất có màu xám hoặc xám đen, nhưng sau khi sơ chế, tam thất chuyển sang màu đen. Mùi tam thất nhẹ nhàng, nhưng vị có phần hơi đắng. Bên cạnh đó tam thất có vị hơi ngọt và để lại dư vị đặc trưng của nhân sâm.

Như ta đã biết, tam thất thuộc vào dòng nhân sâm nên có tác dụng bổ, song lại có phần khác với nhân sâm là tam thất lại theo hướng tác dụng vào phần âm huyết là chính. Trên thực tế, tam thất được sử dụng rất đa dạng. Việc dùng tam thất trị ung thư cũng đang trở thành phong trào của nhiều bệnh nhân.

Chị Trần Thị Miều, trú tại phố Hoàng Mai, là một người đã “sống chung” với căn bệnh u xơ tử cung nhiều năm nay. Đến giai đoạn điều trị, chị đã nhờ đến tam thất, với hy vọng bệnh tình của mình sẽ thuyên giảm ít nhiều. “Tôi đã sử dụng tam thất trong vòng vài năm trở lại đây. Ngày đó giá tam thất rẻ hơn bây giờ khoảng mấy trăm nghìn một cân. Có lẽ do công dụng của tam thất khá phổ biến, nên nhiều người dùng hơn, dẫn đến việc giá tam thấp cứ tiếp tục “leo thang” đến trên 2 triệu đồng một cân” - chị Miều thổ lộ.

Tham khảo giá tại phòng khám Đông y gia truyền Hồng Phúc Đường, số 2A Thể Giao, lương y Hoàng Gia Trí giới thiệu: Hiện, tam thất thường được chia làm 2 loại. Loại 1 là loại 1 lạng có khoảng 7 củ tam thất to, có giá khoảng 200 nghìn đồng/lạng. Loại 2 gồm 10 củ tam thất nhỏ hơn, có giá 180 nghìn đồng/lạng. Khi được hỏi sự khác biệt về chất lượng của 2 loại tam thất, ông Trí cho biết: Hai loại tam thất trên đều có công dụng và chất lượng như nhau. Có chăng sự khác biệt là loại 2 gồm những củ tam thất nhỏ hơn.

Cũng đang có mặt tại cửa hàng, chị Vân Anh ở tập thể Khương Thượng, tuy không mắc bệnh ung thư, nhưng do được nghe nhiều người “khuyên bảo”, chị cũng tìm đến vị đắng của tam thất: Thật ra khi kiểm tra sức khỏe định kỳ, cơ thể tôi hoàn toàn bình thường. Nhưng một vài người bạn khuyên tôi nên dùng tam thất để  phòng ngừa ung thư, tôi cũng dùng thử. Dùng lâu nên thành quen, nếu bây giờ không sử dụng, tôi cảm thấy thiếu tự tin về sức khỏe của mình.

Tam thất hỗ trợ điều trị ung thư

Sau một thời gian điều trị với tam thất, bệnh tình của chị Miều không nặng hơn mà cũng chẳng thuyên giảm. “Tôi vẫn đi kiểm tra sức khỏe đều đặn, đặc biệt là khối u. Sau một thời gian dài dùng tam thất, khối u của tôi không phát triển, nhưng cũng không tiêu dần như lời mấy dược sĩ đã nói. Nếu ngưng sử dụng tam thất một thời gian, thì khối u có hiện tượng phát triển trở lại” - chị Miều cho biết. Hiện nay căn bệnh u xơ tử cung là “ác mộng” đối với nhiều chị em phụ nữ. Việc chị Miều và chị Vân Anh sử dùng tam thất để phòng ngừa và ngăn chặn những khối u là một việc làm cần thiết.

Tiến sĩ Y khoa Hoàng Lam Dương, Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương khuyến cáo: Trong điều trị căn bệnh ung thư, ngoài những thuốc đặc trị, có thể sử dụng thêm tam thất. Thông thường, người mắc bệnh ung thư vẫn phải được điều trị bằng xạ trị hay hóa trị... Điều trị kết hợp với tam thất sẽ tăng tính nhạy cảm của mô ung thư, từ đó có thể sử dụng ít hơn thuốc đặc trị, như vậy sẽ ít gây độc hại hơn cho người bệnh. Nhưng nhấn mạnh rằng tam thất cũng không thể thay thế hoàn toàn thuốc đặc trị ung thư.

Hiện chưa thực sự có một công trình nghiên cứu mang tính thuyết phục trên lâm sàng điều trị ung thư. Nhưng những kết quả khả quan có thể cho chúng ta những định hướng nghiên cứu tích cực. Ví dụ như phối hợp đa phương tiện trị liệu, vừa phẫu thuật, vừa dùng xạ trị, hóa trị, dùng thuốc đông y, hoặc dùng thuốc đông y để giải quyết những tác dụng phụ mà hoá trị và xạ trị gây ra.

Vì vậy, đông y nói chung và tam thất nói riêng hỗ trợ điều trị bệnh ung thư là có cơ sở khoa học. Nhưng trong thời điểm này, không nên phóng đại tác dụng của nó, làm người bệnh lúng túng, hoang mang trong điều trị. Để đạt được kết quả tốt nhất trong điều trị bệnh ung thư, bệnh nhân nên tìm đến các bệnh viện để được tư vấn và điều trị kịp thời, bên cạnh đó nên tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ đông y để có thể điều trị kết hợp.

Xem thêm

Tam thất - Những điều cần biết

Những bài thuốc hay từ tam thất

Củ Tam thất rừng

 

Củ Tam thất rừng hiện có bán tại Thảo Mộc Thiên Nhiên Thuận Thành
Bạn đang xem: Tam thất - Vị thuốc quý
Bài trước Bài sau
VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN

Địa chỉ email của bạn sẽ được bảo mật. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

popup

Số lượng:

Tổng tiền: